Mức độ nguy hiểm của các biến thể virus SARS-CoV-2

Đăng ngày 28/05/2021
Lượt xem: 40452
100%


Việt Nam ghi nhận ba biến thể của virus SARS-CoV-2 đáng quan ngại
Trong một tháng qua, Việt Nam đã ghi nhận tới 3.294 ca nhiễm mới trong nước. Con số lây lan nhanh, chiếm tới 70% số ca mắc trong nước kể từ khi bùng phát dịch tại Việt Nam từ đầu năm 2020 cho thấy, virus biến chủng đã có sự lây lan rộng, dịch diễn biến khó lường. Tại các điểm nóng gần đây như Bắc Giang, Bắc Ninh, Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, tốc độ lây nhiễm của các ổ dịch rất nhanh chỉ trong thời gian ngắn. 

Theo GS, TS Phan Trọng Lân, khi quá trình lây nhiễm tăng nhanh, quá trình virus sao chép và nhân bản cũng gia tăng, các đột biến gien của virus có cơ hội xuất hiện nhiều hơn, dẫn đến khả năng xuất hiện biến thể cao hơn.

"Hiện nay, trên thế giới đã phát hiện khoảng hơn 28 nghìn đột biến trên gien của virus SARS-CoV-2. Hầu hết các đột biến không làm thay đổi đặc tính của virus, nhưng có một số đột biến có thể gây ảnh hưởng đến đặc tính sinh học như làm tăng khả năng lây nhiễm, giúp virus có khả năng lẩn tránh hệ miễn dịch hay làm tăng khả năng xâm nhập vào các tế bào biểu mô đường hô hấp", GS Lân cho hay. 

Hiện tại, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) chia các biến thể của SARS-CoV-2 làm hai nhóm là biến thể đáng quan tâm (VOIs) và biến thể đáng quan ngại (VOCs). Biến thể đáng quan tâm (VOIs) khi có thay đổi về kiểu hình hoặc có một gien với nhiều đột biến có khả năng làm thay đổi acid amin liên quan đến kiểu hình và gây lây lan dịch trong cộng đồng hoặc có nhiều ca/chùm ca bệnh xuất hiện cùng lúc, hoặc được phát hiện ở nhiều quốc gia.

Còn biến thể đáng quan ngại (VOCs) là những biến thể được khẳng định có liên quan đến gia tăng đáng kể khả năng lây lan; làm thay đổi đáng kể tình hình dịch tễ Covid-19 một cách tiêu cực. Biến thể này tăng độc lực virus/làm nặng lên biểu hiện lâm sàng, giảm hiệu quả các biện pháp y tế công cộng hay giảm hiệu quả của các vaccine, xét nghiệm chẩn đoán, liệu pháp điều trị hiện hành.

Hiện nay, các biến thể đáng quan ngại (VOCs) bao gồm:

Biến thể B.1.1.7 (phát hiện ở Anh) đã được ghi nhận ở 155 quốc gia.

Biến thể B.1.351 (ở Nam Phi) đã được ghi nhận ở 111 quốc gia.

Biến thể P.1 (ở Brazil) đã được ghi nhận ở 62 quốc gia

Biến thể B.1.617 (ở Ấn Độ) đã được ghi nhận ở 63 quốc gia.

Theo WHO, các biến thể với lợi thế thích nghi sẽ dần dần thay thế các biến thể cũ theo thời gian.

GS Lân cho biết, tại Việt Nam, ngay từ khi vụ dịch bùng phát đã phát hiện ra các biến thể mang đột biến D614G vào đầu tháng 3-2020 từ những công nhân từ nước ngoài về, tiếp đến là sự xuất hiện của các VOCs như biến thể B.1.1.7 và biến thể B.1.351 được ghi nhận vào tháng 10-2020 từ những công dân về nước từ Anh và hiện nay là biến thể B.1.617 từ ổ dịch Yên Bái, Hà Nam. Các biến thể đáng quan ngại xuất hiện làm cho công tác dự phòng và kiểm soát càng đòi hỏi ở mức cao hơn nữa.

Mức độ nguy hiểm của các biến thể mới

Phân tích về sự tác động của biến thể mới đối với công tác phòng, chống dịch, GS, TS Phan Trọng Lân cho biết, hiện nay, các tác động của biến thể SARS-CoV-2 chủ yếu trên năm phương diện là: khả năng lây lan, độ nặng của bệnh, công tác xét nghiệm, tránh miễn dịch, và điều trị. 

Về khả năng lây lan của các biến thể có sự khác nhau. Qua nghiên cứu cho thấy, biến thể B.1.1.7 có khả năng lây nhiễm cao hơn đến 70% so với các biến thể cũ, nghĩa là một người đã mắc bệnh với biến thể cũ trung bình sẽ lây cho 2-4 người khác, với biến thể B.1.1.7 có thể lây cho đến bảy người khác.

"Các biến thể khác như B.1.351 (Nam Phi), P.1 (Brazil), B.1.617 (Ấn Độ) cũng được WHO báo cáo rằng có khả năng gia tăng sự lây nhiễm. Do vậy, nếu chúng ta không kịp thời ngăn chặn thì khả năng lây lan dịch tăng theo cấp số nhân", GS Lân cho hay.

Về độ nặng và điều trị, theo báo cáo từ WHO và CDC Hoa Kỳ, biến thể B.1.1.7 (ở Anh) có khả năng liên quan đến việc tăng độ nặng và khả năng tử vong. Theo WHO, biến thể B.1.351 (Nam Phi) cũng có khả năng gia tăng nguy cơ tử vong trong bệnh viện và biến thể P.1 (Brazil) có khả năng gia tăng nguy cơ nhập viện.

Mặt khác, theo ước tính về sự lây truyền virus ở Mỹ, tỷ lệ nhiễm bệnh không triệu chứng là 30%; nghĩa là có khoảng 70% bệnh nhân sẽ phát triển triệu chứng sau nhiễm SARS-CoV-2. Ở những người có triệu chứng, trong đó có khoảng 20% mắc bệnh nặng và có 5% là rất nặng (sốc, rối loạn chứng năng đa cơ quan, suy hô hấp…). Do đó, nếu số ca mắc tăng lên nhiều thì sẽ gây quá tải cho hệ thống y tế, từ đó dẫn đến tăng số ca tử vong.

Về vấn đề xét nghiệm, theo thống kê của GISAID (Sáng kiến toàn cầu chia sẻ dữ liệu bệnh cúm) cập nhật ngày 21-5-2021, một số mồi và đầu dò phổ biến dùng cho phản ứng realtime RT-PCR SARS-CoV-2 hiện nay không bị ảnh hưởng nhiều trước sự xuất hiện các biến thể mới gần đây, hơn nữa các xét nghiệm sinh học phân tử này thường sử dụng một vài gien đích đặc hiệu để xác định virus do vậy giảm thiểu sự tác động của các đột biến.

Tuy nhiên, các đột biến của SARS-CoV-2 vẫn đang xảy ra thường xuyên, liên tục nên vẫn có khả năng ảnh hưởng đến kết quả xét nghiệm trong tương lai và có thể dẫn đến kết quả âm tính giả. Do đó, cần thường xuyên cập nhật thông tin về ảnh hưởng của các đột biến và khi biện giải kết quả xét nghiệm cần xem xét và kết hợp các triệu chứng lâm sàng, dịch tễ học và tiền sử bệnh nhân.

Đối với vaccine, theo WHO, các vaccine Covid-19 hiện được cấp phép cung cấp sự bảo vệ nhất định chống lại các biến thể virus mới vì chúng tạo ra một phản ứng miễn dịch rộng rãi liên quan đến một loạt các kháng thể và tế bào.

"Những biến đổi hoặc đột biến của virus sẽ không làm cho vaccine mất hoàn toàn tác dụng. Trong trường hợp bất kỳ loại vaccine nào được chứng minh là kém hiệu quả hơn đối với một hoặc nhiều biến thể, thì có thể thay đổi thành phần của vaccine để bảo vệ chống lại các biến thể này. Do đó, việc giám sát các đột biến của virus cũng như tác động của các biến thể mới đối với hiệu quả bảo vệ của vaccine cần được tiếp tục theo dõi, cập nhật và đánh giá", GS Lân nói. 

Giải quyết triệt để F0 và F1 trong vòng 24 giờ thì sẽ giúp hạn chế tối đa cơ hội lây lan thứ cấp

Để dự phòng và kiểm soát bệnh truyền nhiễm lây qua đường hô hấp, GS, TS Phan Trọng Lân nhấn mạnh ba mắc xích: Một là nguồn lây nhiễm, hai là đường lây truyền, ba là người cảm nhiễm. Nếu mắt xích nào chưa bảo đảm thì phải nỗ lực nhiều hơn nữa những mắc xích còn lại.

Theo GS Lân, khoảng 60% trường hợp mang virus, không có biểu hiện bệnh, không biết mình mang virus đi lại sẽ làm bệnh dễ dàng lây lan và khó phát hiện. Do đó, với các ca F0 phát hiện trong cộng đồng, các địa phương phải ngay lập tức điều tra, truy vết, khoanh vùng và cách ly người tiếp xúc (F1).

"Theo nghiên cứu, để kiểm soát phần lớn ổ dịch, khi chỉ số lây nhiễm cơ bản (Ro) là 2,5, cần phải truy vết ít nhất 70% tổng số người tiếp xúc; còn khi Ro là 3,5 cần phải truy vết ít nhất 90% tổng số người tiếp xúc. Nếu biến thể mới, có thể lây nhiễm đến bảy người khác, thì việc truy vết, phải ở mức cao hơn nữa. Do đó, việc giám sát toàn diện, phát hiện và “thần tốc, thần tốc và thần tốc” chủ động tấn công, không để sót ca nào. Thực tế cho thấy, nếu giải quyết được triệt để F0 và F1 trong vòng 24 giờ thì sẽ giúp hạn chế tối đa cơ hội lây lan thứ cấp tiếp theo", GS Lân cho hay. 

Đối với việc bảo vệ người cảm nhiễm bằng vaccine, cần phải triển khai tiêm sớm và tiêm đủ liều vaccine theo hướng dẫn của Bộ Y tế để có đủ miễn dịch bảo vệ. Khi tỷ lệ bao phủ vaccine cao, không chỉ giúp cho cá nhân được bảo vệ bệnh nặng, tử vong mà còn giảm sự lây nhiễm SARS-CoV2, ngăn lây lan và phát sinh các biến thể mới.

Về cắt đứt đường lây truyền, cách ly vẫn là biện pháp hiệu quả nhất. Đồng thời, có thể giảm sự lây lan virus bằng đeo khẩu trang, giảm khoảng cách, cách ly kiểm dịch, cách ly y tế cho đến giãn cách xã hội. Nếu các nước ngăn được các sự kiện siêu lây nhiễm tụ tập đông người như các lễ hội, tiệc, các sự kiện lớn... thì các vụ dịch khó có cơ hội bùng phát./.

                                                                                           Theo nhandan.com.vn